Điện mặt trời được sinh ra từ các tấm pin năng lượng mặt trời (NLMT) sẽ được hoà với lưới điện, nên gọi là hệ thống nối lưới.
Nguyên lý hoạt động:
Các tấm pin NLMT sẽ chuyển đổi quang năng thành điện năng (DC), thông qua bộ đổi điện hoà lưới (inverter) sẽ chuyển đổi thành điện xoay chiều (AC) cấp điện sử dụng cho các thiết bị điện trong gia đình hoặc doanh nghiệp.
2. Ứng dụng của Hệ thống điện mặt trời nối lưới?
Ứng dụng cho các hộ gia đình, doanh nghiệp, cơ quan, nhà máy, trường học…những nơi sử dụng điện chủ yếu vào ban ngày từ 7h sang tới 6h chiều.
Để có được hệ thống phù hợp với gia đình và doanh nghiệp cần quan tâm tới các yếu tố sau:
- Số lượng điện năng tiêu thụ hàng tháng?
- Diện tích mặt bằng có thể lắp đặt các tấm pin NLMT?
- Khả năng tài chính và nhu cầu thực tế của chủ đầu tư?
Ví dụ thực tế:
Với các hộ gia đình đang phải trả tiền điện từ 800 ngàn tới 1 triệu đồng/tháng, giải pháp hiệu quả và kinh tế nhất là sử dụng hệ thống điện mặt trời nối lưới 3KWp, với tổng mức đầu tư trọn gói khoảng 62-65 triệu đồng.
Đây là giải pháp hiệu quả và kinh tế nhất hiện nay:
- Lắp đặt đơn giản, thẩm mỹ;
- Thời gian hoàn vốn nhanh từ 5 năm – 7 năm;
- Tuổi thọ hệ thống lên tới 25 năm;
- Không mất phí bảo trì, bảo dưỡng hệ thống;
- Chủ đầu tư sẽ có gần 20 năm sử dụng điện miễn phí và sinh lời từ hệ thống này.
2. Chính sách bảo hành :
- Bảo hành trọn gói hệ thống : 5 năm
- Tất cả thiết bị đều được 1 đổi 1 trong năm đầu tiên;
- Riêng tấm pin NLMT được bảo hành lên tới 12 năm;
3. Tại sao nên lựa chọn Samtrix Solar :
Được thành lập từ năm 2006, chúng tôi có kinh nghiệm trong việc triển khai điện năng lượng mặt trời cũng như cung cấp giải pháp tiết kiệm năng lượng cho các đơn vị, tòa nhà, khu CN ở nhiều địa phương.
Hiện tại chúng tôi có hơn 200 đại lý trải dài trên khắp đất nước Việt Nam.
Nếu như Quý khách hàng có bất cứ yêu cầu nào cần hỗ trợ về sản phẩm, dịch vụ hoặc kỹ thuật….xin đừng ngần ngại liên hệ với chúng tôi để có sự phục vụ và hỗ trợ tốt nhất.
Với đội ngũ nhân viên kỹ thuật lành nghề, các chyên gia đều là kỹ sư có kinh nghiệm tốt nghiệp ĐHBK Hà Nội . Với phương châm làm việc : "Chuyên nghiệp, nhiệt tình, chu đáo, giá cả hợp lý" , Samtrix Solar luôn mang đến giải pháp hữu hiệu, một ưu thế phục vụ toàn diện và hiệu quả cao cho Quý khách hàng.
Quý khách hàng là doanh nghiệp hoặc cá nhân xin vui lòng liên hệ với chúng tôi để nhận được sự tư vấn và hỗ trợ tốt nhất
Công ty CP Tập Đoàn Truyền Thông Thanh Niên
Số 59- Cộng Hòa – Q.Tân Bình – Tp. Hồ Chí Minh / Hotline : 0902.282.138
Số 22 – Ngõ 249A - Thuỵ Khuê – Tây Hồ – Hà Nội / Hotline : 0983.802.686
Tình hình đầu tư điện mặt trời, nhất là điện mặt trời áp mái, đang có chiều hướng “khựng” lại khi mức giá ưu đãi 9,5 cent/kWh đã hết hạn hơn 2 tháng, hiện vẫn chưa có bảng giá mua mới.
Chờ giá mới để đầu tư
Theo Quyết định 11/2017 của Thủ tướng Chính phủ, giá điện của các dự án điện mặt trời (ĐMT) được ngành điện mua lại theo ưu đãi là 9,35 cent/kWh từ ngày 1.6.2017 – 30.6.2019. Điều này cũng có nghĩa là từ ngày 1.7 đến nay, người dân, doanh nghiệp đầu tư ĐMT đều chưa biết mức giá điện sẽ được tính toán ra sao; trong khi những người muốn đầu tư mới hay mở rộng cũng chần chừ chờ giá mới được đưa ra. Ông Nguyễn Hữu Anh, Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Giám đốc HTX công nghệ cao phát triển tôm Bạc Liêu, cho biết ông và các thành viên HTX dự định đầu tư hơn 2 tỉ đồng làm hệ thống ĐMT phục vụ nuôi tôm và bán lại sản lượng điện dư cho ngành điện, nhưng hiện dự định này vẫn đang trong giai đoạn chờ. “Theo tìm hiểu của chúng tôi, mức giá 0,95cent/kWh có thể sẽ giảm, khi đó những tính toán sẽ lại khác đi. Hiện chúng tôi vẫn ngóng từng ngày mức giá mới để đưa ra quyết định cuối cùng”, ông Anh nói.
Tương tự, tại TP.Cần Thơ, hiện có hàng trăm doanh nghiệp, hộ gia đình đã và đang có ý định lắp đặt ĐMT áp mái cũng đang băn khoăn về khung giá bán điện dư cho ngành điện. Ông Nguyễn Văn Toàn, đại diện Công ty TNHH Kỹ thuật DTE (TP.Cần Thơ), cho biết với những lợi ích từ việc lắp ĐMT trời áp mái nên rất muốn đầu tư, nhưng việc lắp đặt từ 3 – 5 kWp thì gần như chỉ phục vụ đủ cho nhu cầu hộ gia đình, còn nếu muốn kinh doanh thì việc lắp đặt phải là quy mô lớn hơn. “Điều tôi còn suy nghĩ về chính sách mua bán điện giữa khách hàng và công ty điện lực có ổn định lâu dài, bởi theo tính toán, mất khoảng 5 năm mới hoàn vốn thiết bị”, ông Toàn cho biết.
17 tỉ đồng mua ĐMT
Ông Dương Quốc Phong (ngụ P.Long Tuyền, Q.Bình Thủy, TP.Cần Thơ) thông tin, sau khi được tư vấn lắp đặt ĐMT áp mái, ông thấy hợp lý và dự tính lắp đặt 3 kWp, sản lượng điện tạo ra dự kiến khoảng từ 400 – 450 kWh. “Nếu tính theo giá điện cũ, trừ số điện năng tiêu thụ của gia đình, hằng tháng sẽ dư khoảng 700.000 đồng. Tuy nhiên, đến nay Chính phủ vẫn chưa ban hành giá ĐMT mới nên không biết có nên đầu tư để lắp đặt thiết bị vào thời điểm này”, ông Phong nói. Là một trong những hộ đầu tư ĐMT sau ngày 30.6, ông Lê Quốc Nam (ngụ KDC 586, P.Phú Thứ, Q.Cái Răng, TP.Cần Thơ) có lý do để lo lắng: “Bỏ ra 120 triệu đồng để đầu tư dung lượng 5,5 kWp, sau hơn 2 tháng hoàn thiện, phát bán điện cho ngành điện nhưng tới nay tôi vẫn chưa biết mình sẽ được bao nhiêu. Hy vọng giá ĐMT áp mái mới sẽ tính bằng hoặc hơn giá cũ để người dân yên tâm và tiếp tục ủng hộ chủ trương phát triển điện năng lượng mặt trời”. Hiện chưa có giá điện mới nên số điện của hộ ông Nam vẫn đang được Công ty Điện lực TP.Cần Thơ ghi nhận, chờ khi có giá điện mới sẽ thanh toán sau.Ông Nguyễn Văn Lý, Phó tổng giám đốc Tổng công ty Điện lực miền Nam (EVN SPC), cho biết đến cuối tháng 8.2019, tại 21 tỉnh thành miền Nam, tổng công suất năng lượng mặt trời áp mái khách hàng đã lắp đặt là 121.272 kWp, đạt 127% so với kế hoạch EVN giao. Hiện có 5.982 khách hàng lắp đặt công tơ 2 chiều bán điện dư từ hệ thống ĐMT áp mái phát vào hệ thống điện chung. Tính đến ngày 30.8.2019, EVN SPC đã thanh toán tiền EVN SPC cho 2.948 khách hàng với sản lượng 7.620.128 kWh, số tiền 17,15 tỉ đồng. Mặc dù lượng khách hàng đăng ký lắp đặt ĐMT áp mái vẫn tăng, nhưng hầu hết người đầu tư đều đang mong mỏi mức giá mới cho ĐMT sớm được ban hành.
Phát triển năng lượng tái tạo, đặc biệt là điện mặt trời áp mái (ĐMTAM) đang được Chính phủ, Bộ Công Thương và Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) đặc biệt quan tâm với mục tiêu bù đắp nguồn năng lượng thiếu hụt. Tại Hội thảo “Khởi động chương trình thúc đẩy phát triển ĐMTAM tại Việt Nam” do Bộ Công Thương chủ trì tổ chức tại TP HCM vừa qua, phóng viên Báo Năng lượng Mới có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Quốc Dũng – Trưởng ban Kinh doanh EVN – xung quanh vấn đề này.
PV:Ông có thể cho biết về tình hình cung ứng và tiêu thụ điện của nước ta trong năm 2019 và những năm tiếp theo?
Ông Nguyễn Quốc Dũng: Trong năm 2019, theo quy hoạch, tổng nguồn cung năng lượng điện là 52.600 MW. Tuy nhiên đến thời điểm hiện tại, nguồn cung mới đạt 48.800 MW, thiếu hụt khoảng 3.000 MW. Đến năm 2025, nguồn cung điện theo quy hoạch phải đạt 89.000 MW, đến năm 2030 đạt 110.000 MW.
Tổng nhu cầu điện của cả nước giai đoạn 2019-2030 sẽ tiếp tục tăng cao. Dự kiến trong năm 2019, công suất phụ tải là 38.147 MW, năm 2025 tăng lên 63.400 MW và đến 2030 lên tới 90.000 MW.
Chúng ta đang mất cân đối cung – cầu điện. Trong đó, những năm 2019-2020 là giai đoạn đặc biệt khó khăn đối với ngành điện. Chúng ta đã huy động hết toàn bộ các nguồn nhiệt điện và đã phát điện chạy dầu (rất đắt) nhưng cũng không đủ đáp ứng nhu cầu. Theo kế hoạch, EVN dự kiến phát điện dầu khoảng 1,7 tỉ kWh trong năm 2019, chúng ta đã sử dụng đến hơn 700 triệu kWh từ điện chạy dầu giá cao để đủ điện cho sản xuất, sinh hoạt. Dự kiến của EVN là từ nay đến cuối năm 2019 phải tăng điện chạy dầu thêm 1,8 tỉ kWh nữa.
Trong giai đoạn 2021-2025, khả năng nước ta tiếp tục mất cân đối về cung – cầu điện và thiếu hụt khoảng 3,7 tỉ kWh vào năm 2021, tới 10 tỉ kWh vào năm 2022 và đến năm 2023 thiếu hụt khoảng 12 tỉ kWh.
PV:Nguyên nhân nào khiến mất cân đối lớn về cung – cầu điện, thưa ông?
Ông Nguyễn Quốc Dũng: Nguyên nhân chính là hiện tại rất nhiều dự án điện độc lập (IPP) không đáp ứng tiến độ, không theo quy hoạch. Hiện tại, chúng ta có khoảng 7-8 nhà máy chậm tiến độ với lượng công suất thiếu hụt khoảng 2.200 MW.
Bên cạnh đó là khó khăn trong việc bảo đảm nguồn nhiên liệu cho phát điện.
Tình trạng thiếu điện một mặt do thiếu nguồn, công suất, sản lượng, một mặt chúng ta không truyền tải được nguồn năng lượng tái tạo ở miền Trung. Đây là một trong những nguyên nhân rất là đáng tiếc. Chúng ta đã phát triển được năng lượng tái tạo ở mức độ rất cao trong thời gian qua, nhưng năng lượng tái tạo tập trung rất nhiều ở khu vực miền Trung mà ở đây lưới điện truyền tải phát triển chưa theo kịp tốc độ phát triển của điện mặt trời, gây quá tải lưới điện. EVN đang cùng Bộ Công Thương, UBND các tỉnh tập trung giải quyết các vấn đề về truyền tải điện ở khu vực miền Trung.
PV: Trước những khó khăn đó, EVN đã có giải pháp gì để bù đắp lượng điện thiếu hụt?
Ông Nguyễn Quốc Dũng: Có nhiều giải pháp đồng bộ được triển khai, trong đó có phát triển năng lượng tái tạo, đặc biệt là ĐMTAM đang được Chính phủ, Bộ Công Thương và EVN đặc biệt quan tâm. Chúng tôi đã xây dựng các chương trình, mục tiêu để phát triển một cách nhanh nhất ĐMTAM tại Việt Nam nhằm bù đắp lại nguồn năng lượng đang thiếu hụt và có thể thiếu hụt trong tương lai.
Tiềm năng điện mặt trời của chúng ta rất lớn. Theo thống kê ở 3 miền Bắc – Trung – Nam cho thấy khu vực có tiềm năng lớn nhất là tại miền Nam, tất cả 15 tỉnh được thống kê với bức xạ rất tốt, có tiềm năng phát triển tới 9.737 MWp. Khu vực thứ hai là miền Trung, 11 tỉnh được thống kê với tiềm năng phát triển là 3.202 MWp. Tại khu vực miền Bắc, thống kê ở 3 tỉnh Thanh Hóa, Sơn La, Hà Tĩnh, tiềm năng phát triển là 353 MWp. Như vậy, tổng tiềm năng điện mặt trời có thể phát triển trên toàn quốc là 13.293 MWp.
PV:Ông có thể cho biết, hiện nay có những chương trình nào thúc đẩy phát triển ĐMTAM ở nước ta?
Ông Nguyễn Quốc Dũng: ĐMTAM được khuyến khích phát triển ở tất cả mọi nơi, ưu tiên ở những khu vực khả thi về mặt đấu nối và gần phụ tải. EVN tiếp tục hỗ trợ, khuyến khích tất cả các khách hàng sử dụng điện (điện sinh hoạt, điện công nghiệp, thương mại dịch vụ) đầu tư vào phát triển ĐMTAM, đặc biệt tại những khu vực có nhiều tiềm năng như miền Trung, miền Nam. EVN cũng khuyến khích các hộ lắp ĐMTAM đầu tư các hệ thống tích trữ năng lượng để nâng cao hiệu quả phát điện cho các dự án cũng như tăng độ ổn định cho lưới điện.
Bên cạnh chỉ đạo các trụ sở doanh nghiệp thuộc EVN tiên phong lắp đặt và khuyến khích CBCNV thuộc EVN lắp ĐMTAM, EVN cũng tăng cường quảng bá, tuyên truyền tới các khách hàng cơ quan, công sở của Nhà nước, doanh nghiệp và hộ gia đình về ĐMTAM. Bộ Công Thương đã chỉ đạo EVN triển khai “Chương trình phát triển năng lượng tái tạo Việt Nam” (GET FiT) với mục tiêu hỗ trợ khoảng 50.000-70.000 khách hàng lắp đặt ĐMTAM nối lưới, công suất lắp đặt dự kiến 130-150MWp, dành cho đối tượng hộ gia đình trên phạm vi toàn quốc. Mức hỗ trợ (dự kiến) là 3 triệu đồng/kWp và không quá 6-10 triệu đồng/hộ. Chương trình diễn ra từ năm 2019-2021, được thực hiện bằng nguồn vốn viện trợ không hoàn lại 14,5 triệu eur của Chính phủ Đức thông qua Ngân hàng Tái thiết Đức (KfW).
PV:Khi hộ gia đình lắp đặt ĐMTAM thì quy trình đấu nối, bán điện cho EVN như thế nào, có phức tạp không?
Ông Nguyễn Quốc Dũng: Ngay từ đầu, EVN đã xác định phải làm sao thật công khai, minh bạch và tạo điều kiện thuận lợi nhất với khách hàng lắp đặt ĐMTAM, bảo đảm nhanh chóng, kịp thời và an toàn vận hành. Theo quy định, hệ thống ĐMTAM dưới 3 kWp sẽ được đấu nối vào hệ thống điện 1 pha và trên 3 kWp sẽ đấu vào hệ thống điện 3 pha. Tuy nhiên, chúng tôi sẽ đề xuất với Bộ Công Thương, trong trường hợp các hệ thống trên 3 kWp lắp đặt ở khu vực không có lưới điện 3 pha, nhưng lưới điện 1 pha vẫn đáp ứng yêu cầu kỹ thuật thì vẫn cho phép đấu nối vào lưới điện 1 pha. EVN cũng có kế hoạch nâng cấp hệ thống điện để đáp ứng nhu cầu nối lưới của ĐMTAM.
Hồ sơ đăng ký mua bán điện rất đơn giản, 3 ngày trước ngày hoàn thành, khách hàng gửi giấy đề nghị bán điện đến các doanh nghiệp điện lực địa phương. Hiện nay tất cả các hồ sơ đã được EVN thống nhất và công khai trên trang web của EVN. Ngoài ra, khách hàng cần gửi cho các doanh nghiệp điện lực hồ sơ kỹ thuật. Chúng tôi lưu ý là phải có hồ sơ kỹ thuật vì cần đánh giá chất lượng của các tấm pin, inverter, đánh giá về nhà sản xuất trong tương lai, cũng như về nhà lắp đặt, nhằm đưa ra các khuyến nghị với người tiêu dùng liên quan đến vấn đề kỹ thuật.
Sau khi ký kết hợp đồng mua bán điện, việc ghi chỉ số sẽ được thực hiện 1 tháng 1 lần. Hằng tháng, chúng tôi sẽ thu thập số lượng một cách tự động và thông báo đến khách hàng. Về thanh toán, chúng tôi sẽ chuyển khoản cho chủ đầu tư. Việc thanh toán rất dễ dàng sau khi có chỉ số, qua chuyển khoản ngân hàng.
Trong bối cảnh các nguồn năng lượng truyền thống đang ngày càng cạn kiệt thì việc phát triển năng lượng tái tạo, trong đó có điện mặt trời áp mái, sẽ góp phần bảo đảm an ninh năng lượng.
Theo Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN),tính đến hết tháng 6/2019, đã có 89 nhà máy điện gió và điện mặt trời hòa lưới với tổng công suất đặt 5.038 MW, chiếm 9,5% tổng công suất đặt của hệ thống điện quốc gia.
Dự kiến, đến ngày 31/12/2019, sẽ có thêm khoảng 1.000 MW các nguồn năng lượng tái tạo đấu nối vào hệ thống điện quốc gia góp phần giảm bớt những khó khăn về nguồn điện trong bối cảnh các nguồn năng lượng truyền thống đang ngày càng cạn kiệt.
EVN cho biết chỉ tính riêng điện mặt trời áp mái, trong 3 tháng trở lại đây đã có hơn 4.000 hộ gia đình lắp đặt hệ thống điện mặt trời áp mái với tổng công suất đạt 200 MW. Với tốc độ phát triển như hiện nay, EVN dự kiến đến cuối năm 2019 sẽ có thêm 300 MW công suất điện mặt trời áp mái được lắp đặt.
Tại Diễn đàn năng lượng Việt Nam 2019 vừa mới được tổ chức, ông Võ Quang Lâm, Phó Tổng giám đốc EVN nhấn mạnh, phát triển điện mặt trời áp mái là giải pháp hữu hiệu để giảm được chi phía truyền tải, giảm áp lực về giá và tăng hiệu suất sử dụng.
Hiện nay, Việt Nam đang áp dụng mức giá mua điện mặt trời áp mái là 9,35 cent/kWh. Bộ Công Thương đang đề xuất giữ nguyên mức giá điện mặt trời áp mái đến hết năm 2021 để khuyến khích phát triển nguồn năng lượng tái tạo này.
Cùng với việc tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế chính sách, các giải pháp kỹ thuật cũng đang được gấp rút triển khai nhằm đấu nối và giải tỏa công suất của nguồn năng lượng này. EVN kỳ vọng đến hết năm 2020, công suất điện mặt trời áp mái sẽ đạt khoảng 2.000 MW.
Đánh giá của các chuyên gia trên lĩnh vực năng lượng tái tạo cho thấy, khu vực miền Trung và miền Nam có tiềm năng lớn về điện mặt trời áp mái với độ bức xạ đạt từ 4,2-4,8 kWh/m2/ngày. Điện mặt trời áp mái có tính chất phân tán, tiêu thụ tại chỗ, thời gian phát chủ yếu vào ban ngày, sẽ làm giảm áp lực về phụ tải lưới điện và giảm gánh nặng về đầu tư hệ thống.
Các chuyên gia lĩnh vực năng lượng tái tạo cũng đưa ra nhận định với cơ chế chính sách khuyến khích phát triển năng lượng tái tạo và tiềm năng rất lớn thì mục tiêu đến cuối năm 2025 lắp đặt và đưa vào vận hành 100 nghìn hệ thống điện mặt trời áp mái có thể thực hiện được.
Nhu cầu sử dụng điện trong những ngày nắng nóng cùng việc giá điện tăng khiến hóa đơn tiền điện tăng đột biến. Mặc dù điện mặt trời được coi như giải pháp tiềm năng, nhưng trên thực tế, công nghệ này vẫn chưa lan tỏa tới đại đa số hộ gia đình Việt. Chúng ta cùng nhau tìm hiểu về hệ thống ưu việt này.
Khí hậu phân hóa ảnh hưởng đến sản lượng điện mặt trời
Qua lời tư vấn của một số đơn vị cung cấp, hệ thống điện mặt trời hòa lưới công suất dưới 5 kWp (kilowatt-peak) đang nhận được rất nhiều sự quan tâm. Với giá trên dưới 20 triệu đồng/1 kWp, hệ 3 kWp hứa hẹn tiết kiệm cho gia đình mỗi tháng từ 400-500 kWh (tương đương 800.000 đồng – 1 triệu đồng), trong khi hệ 5 kWp có thể đạt sản lượng từ 600-750 kWh (tương đương 1,2 triệu đồng – 1,5 triệu đồng). Như vậy, hệ thống điện mặt trời sẽ bắt đầu sinh lời sau 5-7 năm.
Tuy nhiên, hiệu quả thực tiễn của hệ thống điện mặt trời phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm: vị trí căn nhà, địa hình lắp đặt, vật cản và quan trọng nhất là điều kiện khí hậu. Khu vực dưới vĩ tuyến 17 (Nam Trung Bộ trở vào), bức xạ mặt trời không chỉ nhiều mà còn rất ổn định, chênh lệch 20% từ mùa Khô sang mùa Mưa. Số giờ nắng trung bình năm ở miền Nam khoảng 2000-2600 giờ/năm.
Vùng
Giờ nắng trong năm
Cường độ BXMT(kWh/m2/ngày)
Đông Bắc
1600 – 1750
3,3 – 4,1
Tây Bắc
1750 – 1800
4,1 – 4,9
Bắc Trung Bộ
1700 – 2000
4,6 – 5,2
Tây Nguyên và Nam Trung Bộ
2000 – 2600
4,9 – 5,7
Nam Bộ
2200 – 2500
4,3 – 4,9
Trung bình cả nước
1700 – 2500
4,6
Trong khi ở các tỉnh miền Bắc, số giờ nắng chỉ khoảng 1500-1700 giờ/năm. Ví dụ, sản lượng điện mặt trời các tháng trong năm tại Hà Nội không đồng đều do sự phân hóa rõ rệt giữa mùa Đông – Xuân và mùa Hè – Thu. Theo báo cáo của Sở Công thương Hà Nội, hệ thống điện mặt trời hoạt động lắp đặt tại miền Bắc sẽ có hiệu quả không cao như các tỉnh miền Nam, từ đó dẫn tới thời gian hoàn vốn sẽ lâu hơn, lên tới 7 năm.
Chúng tôi đã sử dụng phần mềm chuyên dụng PVGIS ước tính sản lượng điện của hệ 3 kWp tại Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh. Bạn có thể thấy điều kiện khí hậu sẽ ảnh hưởng thế nào tới hiệu quả của hệ thống điện mặt trời qua biểu đồ bên dưới.
Với giàn pin nghiêng 12 độ và tổn thất hệ thống 15%, hiệu quả của hệ 3 kWp tại Hà Nội chỉ đạt khoảng 80% so với khi triển khai tại TP. Hồ Chí Minh, đặc biệt có những tháng chưa đầy 60% công suất đỉnh (tương đương 400.000 đồng/tháng). Nếu giá bán điện mặt trời duy trì ở mức 2.314 đồng/kWh, các gia đình tại Hà Nội sẽ phải chờ gần 7 năm để hệ thống bắt đầu sinh lời, trong khi tại TP. Hồ Chí Minh là 5 năm. Đó là chưa kể trường hợp giàn pin có thể bị cây cối hay nhà cao tầng che lấp một vài giờ trong ngày.
Tuổi thọ của các tấm pin mặt trời có thể kéo dài tới 25 năm và được bảo hành tối đa 12 năm. Thời gian bảo hành bộ hòa lưới là 5 năm và khung giàn từ 1 đến 2 năm.
Nhà đầu tư thông minh
Tất nhiên, không ai có thể phủ nhận hoàn toàn lợi ích lâu dài mà nguồn năng lượng “sạch” này đem lại. Trao đổi với anh Quang Hiệp (TP. HCM), chúng tôi được biết hệ thống điện mặt trời 5 kWp đã giúp cắt giảm 90% trên hóa đơn tiền điện, đồng thời cho phép gia đình anh sử dụng điều hòa cũng như thiết bị gia dụng khác thoải mái hơn.
Sau 3 tháng lắp đặt và sử dụng hệ 3 kWp, bác Hương (Hà Nội) cũng bước đầu nhận thấy hiệu quả tích cực mà công nghệ này đem lại. “Buổi sáng hầu như gia đình tôi không dùng đến điện lưới”, bác Lợi cho biết. “Trung bình, sản lượng của hệ khoảng 10 kWh/ngày, nhưng như thế cũng là hiệu quả lắm rồi. Tôi đang tính lắp đặt tiếp cho gia đình con trai tôi”
Việt Nam là quốc gia gần đường xích đạo và có những vùng khô nắng nhiều như các tỉnh Nam Trung Bộ. Kể từ năm 2017, nhà nước đã ban hành nhiều chính sách thúc đẩy phát triển điện mặt trời để hạn chế bớt sự phụ thuộc vào nguồn nhiên liệu hóa thạch đang dần cạn kiệt. Rõ ràng, điện mặt trời đang góp phần đảm bảo cho nguồn an ninh năng lượng quốc gia, nhưng những gia đình đầu tư vào loại hình công nghệ này cần phải tìm hiểu kỹ về sản phẩm cũng như đơn vị lắp đặt, tránh gặp phải sản phẩm kém chất lượng.
Công tơ 2 chiều
Với hệ thống điện mặt trời hòa lưới, khi lượng điện sử dụng ít hơn công suất điện mặt trời thì cần công tơ 2 chiều chạy ngược để tính phần điện thừa bán lại cho Điện lực. Loại thiết bị này sẽ được thiết kế với 1 đồng hồ đo tổng điện năng sử dụng từ lưới và 1 đồng hồ đo lượng điện trả ngược ra lưới từ hệ thống điện mặt trời.
Trong khi tình trạng quá tải lưới điện truyền tải là mối lo của các nhà đầu tư điện mặt trời quy mô lớn, thì vấn đề của hộ gia đình là được lắp công tơ 2 chiều càng sớm càng tốt. Quá trình lắp đặt công tơ 2 chiều do đơn vị EVN phụ trách và miễn phí cho khách hàng. Hiện tại EVN đã có văn bản khuyến khích người dân lắp đặt Hệ thống điện mặt trời áp mái.
Sau khi có Quyết định của Chính phủ về mục tiêu phát triển điện mặt trời, nhiều doanh nghiệp đã đầu tư để có lợi nhuận. Tuy nhiên, chi phí quá lớn đã khiến không ít doanh nghiệp trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan.
Cơ chế và sức hút
Theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh được Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 428/2016/QĐ-TTg, dự kiến đến năm 2020, sản lượng điện đạt 265 – 278 tỷ kWh và đến năm 2030 đạt khoảng 571 – 700 tỷ kWh. Để đáp ứng nhu cầu này, tới năm 2020, công suất điện cần tới 60.000 MW, năm 2025 cần 96.500 MW và đến năm 2030 là 129.500 MW, tức là bình quân mỗi năm tăng thêm khoảng 6.000 – 7.000 MW. Trong đó, mục tiêu phát triển điện mặt trời được đề ra chỉ là 850 MW công suất lắp đặt vào năm 2020 và khoảng 4.000 MW vào năm 2025; khoảng 12.000 MW năm 2030.
Sau khi có Quyết định của Chính phủ về mục tiêu phát triển điện mặt trời, nhiều doanh nghiệp đã đầu tư để có lợi nhuận. Tuy nhiên, chi phí quá lớn đã khiến không ít doanh nghiệp trong tình trạng tiến thoái lưỡng nan.
Cơ chế và sức hút
Theo Quy hoạch điện VII điều chỉnh được Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 428/2016/QĐ-TTg, dự kiến đến năm 2020, sản lượng điện đạt 265 – 278 tỷ kWh và đến năm 2030 đạt khoảng 571 – 700 tỷ kWh. Để đáp ứng nhu cầu này, tới năm 2020, công suất điện cần tới 60.000 MW, năm 2025 cần 96.500 MW và đến năm 2030 là 129.500 MW, tức là bình quân mỗi năm tăng thêm khoảng 6.000 – 7.000 MW. Trong đó, mục tiêu phát triển điện mặt trời được đề ra chỉ là 850 MW công suất lắp đặt vào năm 2020 và khoảng 4.000 MW vào năm 2025; khoảng 12.000 MW năm 2030.
Tuy nhiên, quá nhiều dự án điện mặt trời phát triển cùng lúc ở một khu vực, khi đấu nối vào đường dây hiện hữu, sẽ dẫn đến khả năng phải đầu tư thêm lưới điện truyền tải, trạm biến áp… Dĩ nhiên, các chi phí này đều tính vào giá thành điện, Nhà nước hay Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN) không thể gánh nổi. Để được hưởng mức giá bán điện mặt trời là 9,35 UScent/kWh trong thời gian 20 năm, các dự án điện mặt trời phải vào vận hành thương mại trước ngày 30/6/2019, riêng tỉnh Ninh Thuận đã được gia hạn tới hết năm 2020.
Tuy nhiên, theo Quyết định số 11/2017/QĐ-TTg ngày 11/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ, mức giá này chỉ áp dụng cho các dự án nối lưới có hiệu suất của tế bào quang điện (solar cell) lớn hơn 16% hoặc modun lớn hơn 15%. Thông tư 16/2018/TT-BCT cũng đưa ra yêu cầu, dự án điện mặt trời nối lưới có diện tích sử dụng đất lâu dài không quá 1,2 ha/MWp. Theo tính toán của các chuyên gia đến từ GIZ, ở thời điểm tháng 7/2019, giá FiT cho một dự án điện mặt trời quy mô 50 MW là 6,57 – 7,14 UScent/kWh ở vùng có bức xạ mặt trời lớn nhất như Bình Thuận, Ninh Thuận.
Ở các vùng có bức xạ thấp như miền Bắc, giá FiT là 8,7 – 9,45 UScent/kWh. Mức giá ở vùng có bức xạ mặt trời lớn cũng sẽ giảm còn 5,78 – 6,28 UScent/kWh vào tháng 7/2020 và xuống còn khoảng 5,5 UScent/kWh vào tháng 7/2021. Nghĩa là, những dự án nào nhanh chân được bổ sung vào quy hoạch, kịp phát điện thương mại trước tháng 6/2019 (riêng Ninh Thuận là hết năm 2020) có thể yên tâm “rung đùi” hưởng mức giá mua điện ở mức 9,35 UScent/kWh trong 20 năm so với các dự án chậm chân.